Mồng tơi: Trước là thuốc, sau mới là rau ăn 

0
502

Trên thực tế, cây
mồng tơi có 2 phân chủng: một loại hoa và quả đều màu trắng (Bassela
rubra L.); còn một loại hoa màu trắng tím và quả màu đen nhánh (Bassela
rubra L. var. nigraLour.). Cả hai loại được sử dụng làm rau ăn và làm
thuốc với cùng tác dụng.

Mồng tơi được sử dụng
làm thuốc đã từ lâu đời. Tác dụng chữa bệnh của mồng tơi được ghi lại
sớm nhất trong sách “Danh y biệt lục” của Đào Hoằng Cảnh (456 – 536) như
sau: “chủ hoạt trung, tán nhiệt” (thông lợi đường tiêu hóa, giải nhiệt).
Thời xưa, mồng tơi không được sử dụng để làm rau ăn. Mãi về sau này khi
các nghiên cứu hiện đại cho thấy, thành phần dinh dưỡng của mồng tơi
cũng rất phong phú, thì người ta mới bắt đầu sử dụng để làm rau ăn.


Mồng tơi: Trước là thuốc, sau mới là rau ăn 1

Một bát canh mồng tơi trong ngày hè nắng
nóng có tác dụng giải nhiệt

Theo Đông y: rau mồng
tơi có vị chua ngọt, tính lạnh, không độc, vào 5 kinh Tâm, Can, Tỳ, Đại
tràng và Tiểu tràng. Có tác dụng thanh nhiệt, hoạt tràng, lương huyết,
giải độc. Dùng chữa đại tiện bí kết, đại tiện xuất huyết, tiểu tiện
không thông, đái rắt, đái nhỏ giọt, kiết lỵ, ban chẩn, đinh sang…

Dân gian thường dùng
rau mồngt ơi làm rau ăn cho mát, thêm tân dịch, khỏi khô háo và chống
táo bón. Một số nơi còn dùng quả mồng tơi để nhuộm đỏ các loại mứt, nếu
thêm chanh thì màu đậm hơn, nhưng không nên cho nhiều quá.

Tại Indonesia, người ta thường dùng rau mồng tơi làm thuốc chữa trẻ con
bị táo bón, phụ nữ đẻ khó; nước ép quả dùng nhỏ mắt chữa đau mắt. Tại
Trung Quốc, có nơi người ta dùng rau mồng tơi giã đắp chữa vú sưng nứt,
giải độc.

– Kiêng kỵ:
người Tỳ Vị hư hàn (lạnh bụng), ỉa chảy, đại tiện lỏng nên hạn chế sử
dụng.

Để tham khảo và áp
dụng những khi cần thiết, xin giới thiệu một số phương pháp sử dụng mồng
tơi để chữa bệnh, đã được ghi chép trong sách thuốc cổ kim:


Mồng tơi: Trước là thuốc, sau mới là rau ăn 2

– Đại tiện táo bón:
dùng mồng tơi 500g, thêm mắm muối, tương, giấm, nấu thành món canh ăn
trong bữa cơm; sau vài ngày đại tiện sẽ thông.

– Đại tiện xuất
huyết kinh niên:

rau mồng tơi 30g, gà mái già 1 con (bỏ đầu, chân, nội tạng), hầm lên ăn;
sau khi thịt gà chín, mới cho mồng tơ ivào, nấu thêm 20 phút là được.

– Tiểu tiện không
thông suốt,đái rắt, đái nhỏ giọt:

dùng rau mồng tơi tươi 70 – 100g, sắc nước uống thay trà trong ngày.

– Chảy máu mũi do
huyết nhiệt:

dùng mồng tơi tươi giã nát, dùng bông thấm nước cốt, nhét vào lỗ mũi.

– Ngực bồn chồn,
đầy tức:

rau mồng tơi 60g, sắc lấy nước đặc, hòa thêm chút rượu trắng vào uống,
uống ấm.

– Khớp xương tay
chân đau nhức do phong thấp
:
rau mồng tơi cả cây 50 – 100g, móng chân giò 1 cái, hầm với nước và rượu
cho chín, làm món ăn trong bữa cơm hàng ngày.

– Chữa bỏng:

dùng mồng tơi tươi, giã nát, lấy nước bôi lên chỗ da bị bỏng.

– Lợi sữa:
phụ nữ sau khi đẻ ít sữa, thường ăn rau mồng tơi, sữa sẽ nhiều.

– Chữa đinh nhọt:
dùng lá rau mồng tơi tươi, giã nát, đắp vào chỗ bị bệnh, ngày thay thuốc
2 – 3 lần.

– Ban xuất huyết:
dùng mồng tơi 100g, mã lan 50g, tề thái 25g, sắc lấy nước, chia 3 lần
uống trong ngày. Mãlan (Kalimeris indica (L.) Bip) còn gọi là hài nhi
cúc, tề thái (Capsella bursapastoris (L.) Medic.), đều là những cây mọc
hoang nhiều nơi ở nước ta.