Có được xử dụng bài hát của Tin Lành trong Thánh lễ không?

0
1127

Có được xử dụng bài hát của Tin Lành trong Thánh lễ không?

 

 

+ Có được xử dụng bài hát của Tin Lành trong Thánh lễ không? –  Hôn bình an

+ Trong việc xử dụng âm thạc tân thời trong Thánh lễ, phải theo những tiêu chuẩn nào? Có được dùng những bài hát Tin Lành không? Phải áp dụng những tiêu chuẩn nào trong

những trường hợp này? P.C.,Honolulu, Hawaii

Giải đáp do cha Edward McNamara, giáo sự phung vụ tại Đại học Giáo Hòang Regina:

Trước hết cần phải nhớ rằng sự lựa chọn một bản văn hay một bài hát không được hoàn

toàn tự tiện, nhưng đòi hỏi phải xử dụng những bản văn hợp thức hóa.

Theo Qui Chế Tổng Quát Mới trong Sách Lễ Qui Roma (GIRM), khi giải thích những

phương thức khác biệt để hát các phần riêng của Thánh Lễ, được nói đến trong phần thứ

Tư và phần cuối cùng, “một bài hát phụng vụ xứng hợp cũng được Hội đồng Giám mục

hay Giám Mục Giáo phận chuẩn y.”

Những sự lựa chọn khác là: (1) điệp ca ghi trong Sách Lễ Roma hay là Thành vịnh ghi

trong sách Roman Gradual nói về âm nhạc và những sắp xếp khác trong âm nhạc; (2)

điệp ca theo mùa và Thánh vịnh của Simlex Gradual; (3) môt bài hát ghi trong một sưu

tập khác về thánh vịnh và điệp ca, được hội đồng giám mục hay giám mục giáo phận

chuẩn nhận, kể cả những thánh vịnh sắp xếp trong các hình thức đáp ca hay nhịp điệu (Số

48, số 86 và 87).

Khi qui chiếu cách riêng đối với Hoa Kỳ, qui chế khẳng định: “Phải ghi nhớ rằng phần

quan trọng để hát trong một nghi lễ là một phần cần thiết hay trọn vẹn theo Phụng vụ, tất

cả những sắp xếp âm nhạc của những bản văn cho các câu đáp và tung hô của giáo dân

trong Nghi Thức Thánh Lễ và cho những nghi thức riêng theo năm phụng vụ, phải được

đệ trình lên Phòng Thư ký Phụng vụ của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ để duyệt xét và

chuẩn y trước khi phổ biến “(Số 393).

Một số Hội đồng Giám Mục đã phổ biến những tập sách thánh ca chính thức có thể xử

dụng trong phụng vụ, đang khi các Hội Ðồng Giám Mục khác còn đang sắp đặt một hệ

thống để phê chuẩn những bản văn âm nhạc. Giám mục giáo phận có thể tự mình quyết

định cung cách để phê chuẩn những thánh thi và những bài hát xử dụng trong phụng vụ,

Ngài có thể phổ biến một tập thánh ca chogiáo phận hay chỉ hạn chế trong việc phê chuẩn

bất cứ sách hát nào về thánh thi hay phụng vụ có imprimatur (phép in) của một giám mục

khác.

Điều quan trọng là sự lựa chọn các bản văn và âm nhạc trong phụng vụ không phải là một

vấn đề sở thích cá nhân, nhưng còn phải kéo theo vấn đề sâu xa hơn là sự hiệp thông giáo

hội

Nói chung những tiêu chuẩn được xử dụng để phê chuẩn những bản văn thích hợp thánh

thi hay thánh ca phải được linh hứng bởi Kinh Thánh hay phụng vụ, mặc dầu mang hình thức thi ca, và bản văn phải là một sự tuyên xưng đức tin, bằng cách diễn tả những chân

lý đời đời và chính thống hơn là những vấn đề hiện hành.

Điều này phải được quan tâm trong trường hợp các bài Thánh Ca Tin lành. Những bản

thánh ca đó có thể dùng trong phụng vụ miễn là đúng với giáo lý Công giáo. Bất cứ bài

thánh ca nào chứa đựng giáo lý đi nghịch lại những huấn giáo Công Giáo hay còn mơ hồ

thì không thể dùng được.

Những bài hát phụng vụ là để giúp cầu nguyện, nên phong cách và âm thanh phải được

phân biệt với lối nhạc đời. Nhiệm vụ của thánh ca là nâng cao tinh thần–chớ không phải

để nhịp chân hay kích thích trí tưởng tượng. Do đó, những bài hát thánh ca không bao giờ

được coi phóng tác theo những những bản nhạc nổi tiếng hiện nay– hay là như thường

thấy xuất hiện đến những bản nổi tiếng từ các thế hệ trước–nhưng phải tìm cách diễn tả

giá trị tôn giáo của bản văn vì theo truyền thống Công giáo, bản văn luôn luôn phải được

coi trọng hơn là âm nhạc và hiểu theo nghĩa là linh hồn âm nhạc.

Tình trạng thiếu thốn bài hát phụng vụ thì cũng là điều dễ hiểu, vì sau khi được xử dụng

ngôn ngữ địa phương, các giáo xứ cảm thấy mình cần đến âm nhạc thích hợp cho phụng

vụ mới. Tập thánh ca với những bài sáng tác theo ngôn ngữ địa phương ngữ và Latin

truyền thống được coi như là không đủ, hay còn tệ hơn nữa là đã lỗi thời hay không còn

thích hợp. Vì những bài nhạc Mozarts không phải rẻ tiền, và thúc bách đến nhu cầu có

các bản nhạc mới cho nên hầu hết các giáo xứ xử dụng những gì đã có và lấy một số bài

ít giá trị hơn mặc dầu cũng có được một số sáng tác hay.

Nói chung hầu hết tất cả các nơi đều kinh nghiệm đến một thời đáng sợ, nhất là vào thập

niên 1970. Thí dụ như tại Tây ban nha, nhiều bài nhạc đời của Mỹ hay Anh được chuyển

ra lời Tây Ban Nha để hát trong Thánh Lễ như bài “Nobody Knows the Troubles I’ve

Seen” hay là “Land of Hope and Glory” phóng ra trong Thánh Lễ, hay là cả bản “Lord

Have Mercy” và “Sanctus” lấy từ “Hey Jude” và “Help” của ban nhạc Beatles.

Sự phàm tục hóa trong lãnh vự thiêng liêng là một vấn đề tái diễn trong âm nhạc Giáo hội

và luôn luôn bị chống đối mạnh.

Vào thời điểm của Công đồng Trent, nhiều giám mục phàn nàn và phê bình đến việc xử

dụng những bài hát đời trong việc hòa âm và đối âm, như một bài dựa theo một bài hát

ngắn bình dân gọi là “Bacciami amica mia” (Kiss me, my dear). Thánh Pius X, với tư

cách vừa là Giám mục vưa là Giáo Hoàng, cũng chống đối cung cách theo kiểu nhạc kịch

cá nhân trong thánh đường tại Ý.

Mặc dầu chậm chạp nhưng qua những năm gần đây đã cho thấy sự cải thiện trong nhiều

nơi. Cùng với việc lấy lại nhiều bài hát truyền thống, và cũng có môt số người trở lại

dùng các bài bình ca Gregorien và bài hợp âm nhiều bè cổ điển, hiện nay một số các tác

giả đã nghiêm chỉnh sáng tác theo âm nhạc phụng vụ.

Ví dụ như tại Nước Ý, đã cho thấy nhiều tác phẩm tuyệt vời có thể dễ dàng cung cấp một

điểm chuẩn cho công việc của các nhà sáng tác theo những ngôn ngữ khác. Đáng kể hơn hết là công trình của Ðức Ông Marco Frisina, lời nhạc được linh hứng theo kinh thánh và

âm nhạc phụng vụ của đức ông vừa phong phú vừa dễ nhớ, có thể cho phép cộng đồng

hát đồng giọng hoặc cho ca đoàn hát hợp ca bốn bè. Mặc dầu có thể phải trải qua nhiều

thập niên, thế nhưng mộtsưu tập mới về âm nhạc phụng vụ tốt đẹp sẽ được thành hình

theo các nguyên tác của Công đồng Vatican II và truyền thống Công giáo chân chính. * *

*

Hôn bình an

Nhiều độc giả gợi lên những điểm đáng chú ý liên quan tới việc hôn bình an. Một dộc giả

từ Toronto hỏi về lịch sử sự hôn bình an và được du nhập khi nào.

Hôn hay dấu chỉ chúc bình an có từ những thời kỳ đầu tiên được linh hứng qua lời mời

gọi của thánh Phaolô Tông Ðồ gởi tín hữu Corintô: “Anh em hãy hôn chào nhau một

cách thánh thiện” (1 Co 16:20). Chúa Giêsu thúc giục người ta làm hòa với một người

anh em mình trươc khi dâng lễ nơi bàn thờ, Sự hôn bình an cũng là sự trả lời minh nhiên

cho lời khuyên của Ðức Kitô phải thực hiện sự hoà giải và bình an huynh đệ đễ thanh tẩy

hy lễ của mình.

Nghi thức được nhắc tới trong những tài liệu xưa như “Apostolic Constitutions” và những

bài giảng của thánh Augustinô.

Đầu tiên, hôn bình an được xem như là một sự chuẩn bị quan trọng và đôi khi có tính

cách bắt buộc đối với những người sắp lên Rước Lễ, nhưng sau áp dụng cho tất cải mọi

người. Sau năm 1000, sự hôn bình an lần lần biến thành một nghi thức chính thức hóa

hơn và sau này chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ ngoại trự trong một số dịp đặc biệt.

Như vậy dấu chỉ chúc bình an như được diễn tả trong sách lễ hiện nay, đại khái lập lại

theo hình thức đã có từ thời trung cổ khi mỗi người hôn bình an người đứng bên cạnh

mình. Trong thời dó cử chỉ hôn là một dấu chỉ cung kính hơn là tình thương. Do đó, cử

chỉ áp dụng ngày nay phải là điều mà tập quán địa phương coi như một cử chỉ cung kính.

Một độc giả từ Kentucky hỏi linh mục hay phó tế có được lựa chọn xử dụng những hình

thức khác để mời làm dấu chỉ chúc bình an ngoài hình thức đã có trong sách lễ và “linh

mục có dược phép thay đổi những lời mời gọi như ‘Nếu anh chị em muốn, anh chị em có

thể ban cho nhau dấu chỉ bình an,’ như vậy là cho người ta tự ý lựa chọn hay không?”

Mặc dầu sách lễ bằng tiếng Anh thật sự hạn chế trong phương diện này, những ngôn ngữ

khác như tiếng Ý và Tây ban nha cung cấp nhiều công thức cho dấu chỉ chúc bình an,

một số dấu đó phản ảnh theo mùa phụng vụ. Như vậy có thể có những thay đổi nhỏ trong

lời mời gọi.

Tuy nhiên tôi không chắc là linh mục hay phó tế sẽ xử dụng hình thức đặc biệt nào đó

như độc giả chúng ta trưng dẫn, thật ra thì đó là điều vụng về và tốt hơn nên bỏ đi, vì như

thế một số người có thể sẽ không chúc bình an vì một lý do chính đáng (hơn là việc

không thích làm). Việc này không phải là để tránh những khó khăn cho những thành phần khó tính trong

cộng đồng, bởi vì khi một số người tự nhiện không thích bắt tay những người hoàn toàn

xa lạ, một sự mĩm cười và một cử chỉ dịu dàng dịu dàng, thật không đáng gì nhưng rất có

ý nghĩa.

Một linh mục từ một hoàn cảnh đa văn hóa trong đó những người trong giáo xứ qua

nhiều năm đã có thói quen “kéo dài việc chúc bình an”, và vị linh mục ấy đang gặp khó

khăn để giải thích bản chất thât của nghi thức này, đã hỏi: “Có được phép và tuân giữ

theo tinh thần GIRM nếu nghi thức kinh “Chiên Thiên Chúa” là long trọng và nổi bật hơn

là sự “kéo dài” chúc bình an ‘kéo dài’.. . theo tập quán của những cộng đồng này?”

Tôi muốn gợi ý rằng linh mục cần nhẫn nại khi giải thích nghi thức và những qui luật phổ

quát hướng dẫn việc xử dụng nghi thức đó. Trước hết, linh mục nên động viên và khắc

sâu sự hiểu biết thiêng liêng của những người trong giáo xứ mình về ý nghĩa và cử chỉ

như là một sự chuẩn bị dọn mình Rước lễ và hiệp nhất trong Thân thể Mầu nhiệm Chúa

Kitô. Điều này không bao giờ có thể coi bị giảm đi nhưng trái lại là một dấu của tình

thương yêu nhau, của tình liên đới chủng tộc, hay là của bất cứ giá trị thuần túy nhân bản

nào khác.

Một khi việc giải thích này đã thực hiện, thật là ý tưởng tốt để tăng cường sự nổi bật của

kinh “Chiên Thiên Chúa” cùng với sự tôn trọng lời chúc bình an. Như vậy ca đoàn hay ca

viên phải được huấn luyện khi nào thì xướng kinh “Chiên Thiên Chúa,” dành ra một

khoảng thời gian ngắn để thích hợp cho lời chúc bình an.

Ðể được long trọng hơn trong thời gian “bày tỏ lời chúc bình an” cho tới kinh “Chiên

Thiên Chúa”, nên dùng những kinh đơn giản hơn dễ hát cho toàn thể cộng đoàn. Khi thói

quen ban dấu chỉ bình an ngắn hơn được thiết lập, ca đoàn có thể tùy nghi hát nhưng bài

thánh ca phức tạp hơn hay có thể hát kinh Gregorian.

Hát kinh “Chiên Thiên Chúa” một cách vui vẻ hơn tùy theo hạn định là điều thích hợp

theo thông tư và tinh thần Sách Lễ Qui Roma, số 13)

Cử chỉ của Chúa Kitô bẻ bánh trong bữa Tiệc Ly cuối cùng, điều này đặt tên cho toàn thể

Hành Động Thánh Thể trong thời các tông đồ, có nghĩa là nhiều người tìn hữu làm nên

một thân thể (2Cr 10:17) bằng cách Rước Lễ từ một bánh sự Sống là Chúa Kitô, Người

đã chết và sống lại vì phần rỗi thế giới. Việc bẻ bánh bắt đầu sau dấu bình an và được

thực hiện với vẻ cung kính cách riêng, dầu không nên kéo dài một cách không cần thiết,

cũng không nên cho nó một tầm quan trọng không đáng… Kinh Chiên Thiên Chúa là một

luật buộc, do ca đoàn hay ca viên xướng được cộng đoàn hát theo; hay ít nhất phải được

đọc to tiếng. Sự cầu xin này đồng hành với việc bẻ bánh nên vì lẽ này mà có thể hát đi hát

lại khi cần thiết cho tới lúc kết thúc, lời hát kết với cụm từ ‘dona nobis pacem'(xin ban

bình an cho chúng con)”.* * *

 

Ðức Ông Nguyễn Quang Sách