Hiểm họa rung lắc trẻ

0
671

Một số thói quen do vô ý của người lớn có
thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ, trong đó có thói quen rung lắc trẻ
gây ra những tổn thương não do rung lắc mạnh trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ.


Phụ huynh sơ ý trẻ dễ tổn thương

Phụ huynh sơ ý trẻ
dễ tổn thương

Theo bác sĩ Nguyễn
Duy Long, khoa Huyết học, Bệnh viện Nhi đồng 1 (TPHCM), trẻ em, đặc biệt
ở trẻ sơ sinh, có đầu lớn và nặng (chiếm 25% cơ thể), cổ yếu khó chịu
được sức nặng của đầu, trong khi xương sọ mềm, màng não mỏng, có khoảng
trống giữa não và xương sọ nên rất dễ bị tổn thương.

Vì thế, nếu bị rung
lắc thì trẻ rất dễ gặp nguy hiểm. Bác sĩ Duy Long cho hay, nhiều phụ
huynh bế xốc trẻ trong tư thế đứng, do cổ bé yếu nên sẽ dễ di chuyển
theo hướng trước sau. Có phụ huynh thường lắc võng, đưa nôi cho trẻ
trong trường hợp trẻ khóc quá nên nóng ruột hoặc bực bội rồi cố ru, cố
lắc mạnh để làm cho trẻ nín. Cũng có trường hợp cha mẹ cưng nựng nên
nhồi xốc bé, bồng bé đưa lên đưa xuống nhanh, ẵm bé đưa lên cao làm máy
bay. Những hành động trên dễ gây ra hội chứng rung lắc ở trẻ.

Hội chứng này xảy ra
khi trẻ bị rung lắc thì lực rung sẽ chuyển tới não và làm tổn thương não
gây ra chấn thương trực tiếp làm rách mạch máu, gây xuất huyết dưới màng
nhện, dưới màng cứng, trong nhu mô não. Lực tăng tốc làm cho não bị dội
trở lại, đập vào xương sọ, gây dập não, xuất huyết, phù não.        

Những tổn thương do
rung lắc để lại di chứng nặng nề như làm trẻ bị chậm phát triển trí tuệ,
rối loạn hành vi nói và nghe, động kinh, rối loạn kỹ năng định hướng,
giảm khả năng nhận thức, ảnh hưởng tới mắt thì có thể làm trẻ giảm thị
lực, gây mù.

“Bên cạnh đó còn gây
tổn thương mắt trẻ như xuất huyết nhãn cầu, xuất huyết võng mạc, phù gai
hoặc có thể gây chấn thương các bộ phận khác như cổ, cột sống, xương
sườn”, bác sĩ Long cho biết.

Di chứng nặng nề

Những tổn thương do
rung lắc để lại di chứng nặng nề như làm trẻ bị chậm phát triển trí tuệ,
rối loạn hành vi nói và nghe, động kinh, rối loạn kỹ năng định hướng,
giảm khả năng nhận thức, ảnh hưởng tới mắt thì có thể làm trẻ giảm thị
lực, gây mù. Đáng lưu ý, có những tổn thương kéo dài và chỉ phát hiện
được khi trẻ đã lớn nên phải điều trị chuyên sâu, lâu dài và tốn kém.

“Tùy theo mức độ tổn
thương có thể làm trẻ chậm phát triển trí tuệ, rối loạn hành vi nói và
nghe, động kinh, rối loạn kỹ năng định hướng, giảm khả năng nhận thức,
giảm thị lực… trong đó nhiều tổn thương kéo dài chỉ phát hiện được khi
trẻ đã lớn”, bác sĩ Nguyễn Duy Long cho biết.

Do đa số triệu chứng
của hội chứng rung lắc là không rõ ràng nên phụ huynh cần để ý những
triệu chứng bất thường như bứt rứt, quấy khóc, đờ đẫn, lơ mơ, ngủ mê,
trương lực cơ giảm, da xanh tái, nhất là ở vùng trán, ăn khó, bú khó,
nuốt khó hoặc ói, khó thở, ngừng thở hoặc co giật. Ngoài ra, cha mẹ có
thể để ý đến các chấn thương ở cổ như sưng, phù nề, cứng cổ, nghẹo cổ về
một bên, đầu khó quay qua quay lại.

Khi trẻ có những biểu
hiện như trên, phụ huynh hãy nhanh chóng gọi xe cấp cứu, tuyệt đối không
vận chuyển bằng xe thông thường. Ngoài ra, không được bế xốc trẻ lên,
không cố lắc để làm cho trẻ tỉnh lại.

“Không cho trẻ ăn, bú,
nếu trẻ ngừng thở phải hô hấp nhân tạo. Nếu chấn thương cổ: tránh xoay
trẻ, cố định cổ. Nếu trẻ nôn và không có chấn thương cổ thì xoay nhẹ đầu
trẻ về một bên để tránh sặc và ngừng thở”, bác sĩ Long lưu ý.

Ngoài ra, trong lúc
chơi với trẻ, phụ huynh tuyệt đối không rung lắc trẻ, kể cả khi vui đùa
hay giận dữ, khi trẻ thức hay khi trẻ ngủ. Khi di chuyển trẻ, hãy cố
gắng giữ cổ ở tư thế cố định.